Sự ảnh hưởng của làn sóng Hallyu (Hàn lưu) đến Việt Nam Phần 1 Korean Cultural Wave in Vietnam – The Impact of Hallyu Part 1
- Trâm Mai
- Jun 16
- 9 min read

Lâu lắm rồi mình mới quay lại ngồi viết blog về 1 chủ đề mà mình cực kì thích, đó là “văn hóa”. Ngày hôm nay, để mình đưa các bạn quay trở lại với “làn sóng Hallyu” (*Hallyu: hay còn được gọi là “Hàn lưu”) đã “làm mưa làm gió” hơn 20 năm và trở thành 1 phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, đặc biệt là thế hệ 8X-9X. Nói như vậy, không có nghĩa là Hàn Quốc không còn tạo được sự ảnh hưởng đến Việt Nam nữa. Ngược lại, thế hệ Gen Z (những người sinh từ năm 1995 đến 2012) đóng vai trò trung tâm trong việc tiếp nhận, tiêu thụ và thúc đẩy sự bùng nổ của Hallyu tại Việt Nam. Với sự nhạy bén và khả năng thích nghi nhanh chóng với công nghệ và các nền tảng mạng xã hội như YouTube, Spotify, Netflix, và TikTok, Gen Z đã trở thành những người nghe và "Marketer" tích cực nhất cho Hallyu, điểm hình là mỗi lần các nghệ sĩ thần tượng của cả châu Á như G-Dragon (ca sĩ và là 1 trong những thành viên của Bigbang) tổ chức các buổi biểu diễn toàn châu Á - luôn có được sự đón nhận “siêu cuồng nhiệt” từ những người hâm mộ trung thành.
Bây giờ, bạn cùng mình tìm hiểu về làn sóng Hàn lưu thông qua các khía cạnh nghệ thuật, giải trí đến đời sống tinh thần, văn hóa của người trẻ Việt.
It’s been a long time since I last sat down to write a blog about one of my greatest passions: culture. Today, let me take you on a journey through the "Hallyu wave" - which has been making waves for over 20 years and has become an indispensable part of the Vietnamese cultural landscape, especially for the 8X–9X generations. That’s not to say Korea no longer influences Vietnam. On the contrary, Gen Z (born 1995–2012) is now at the epicenter of embracing, consuming, and spreading Hallyu in Vietnam. With their tech-savviness and adaptability to platforms like YouTube, Spotify, Netflix, and TikTok, Gen Z are both the most enthusiastic listeners and marketers of Hallyu - just look at the outpouring of fandom whenever pan-Asian idols like G-Dragon (from Bigbang) tour here.
Today, let’s explore how the Hallyu wave has shaped artistic expression, entertainment, and the cultural lives of young Vietnamese.
Vậy, làn sóng “Hallyu” là gì? (What is the “Hallyu” Wave?)
Thực ra khi đang viết bài này, mình cũng đang nghe lại 1 bài hát cực kì “hot” hơn 15 năm về trước của 1 trong những nhóm nhạc nam là hiện tượng “toàn Châu Á” tại thời điểm đó: nhóm nhạc DBSK với bài “Mirotic”. Vừa nghe nhạc Kpop, vừa tìm hiểu về “Hallyu”, càng khiến mình có hứng thú để “gõ chữ” hơn. “Hallyu” hay còn được gọi “thuần Việt” hơn là "Hàn lưu", là thuật ngữ tiếng Hàn dùng để chỉ làn sóng văn hóa Hàn Quốc lan tỏa khắp toàn cầu. Hiện tượng này bao gồm nhiều lĩnh vực đa dạng: trải dài từ âm nhạc (K-Pop), phim ảnh (K-Drama, K-Cinema), các chương trình truyền hình, trò chơi điện tử, thời trang, ẩm thực cho đến du lịch. Làn sóng này bắt đầu từ thập niên 1980 và thực sự đạt đến “đỉnh” vào những năm 2000-2010. Sự bùng nổ mạnh mẽ của Hallyu trên phạm vi toàn cầu được thúc đẩy bởi sự phát triển của Internet và các mạng truyền thông xã hội, đặc biệt là sự gia tăng của video âm nhạc K-Pop trên YouTube.
As I write this, I’m listening to a massively popular K‑pop song from over 15 years ago: DBSK's "Mirotic." Revisiting it while researching Hallyu inspires me even more to write. "Hallyu"—literally “Korean wave”—refers to the global spread of South Korean culture, including music (K‑Pop), film and TV (K‑Drama, K‑Cinema), variety shows, gaming, fashion, cuisine, and tourism. It began in the 1980s and reached its zenith in the 2000s–2010s, propelled by internet and social media—especially the boom of K‑pop videos on YouTube.

Thành công vượt bậc của Hallyu không phải là một hiện tượng bộc phát, đây là kết quả của một chiến lược đã được chính phủ Hàn Quốc đầu tư mạnh mẽ và duy trì lâu dài. Chính phủ Hàn Quốc coi việc phát triển các sản phẩm văn hóa thành một chính sách được ưu tiên hàng đầu của quốc gia. Ngân sách đầu tư cho ngành "Công nghiệp văn hóa" ngày một tăng trưởng, thể hiện cam kết lâu dài và chiến lược rõ ràng trong việc biến văn hóa thành một công cụ kinh tế và ngoại giao. Điều này làm mình tin rằng đây sẽ là 1 bài học đáng học hỏi cho Việt Nam - tìm cách quảng bá văn hóa Việt Nam qua âm nhạc hay phim ảnh. Về khía cạnh âm nhạc, nhạc Việt Nam cũng đang được các bạn trẻ không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nước bạn (Thái, Trung Quốc, Hàn,...) đón nhận và để ý với những hiện tượng như: bài hát “See tình” của Hoàng Thùy Linh, “2 phút hơn” của Pháo, Masew, “Bên trên tầng lầu” của Tăng Duy Tân, “Hello Việt Nam” của Phạm Quỳnh Anh... và một vài ca khúc của Sơn Tùng MTP như: “Lạc trôi”, “Đừng làm trái tim anh đau”,.... cũng được nghe rất nhiều ở Youtube và Tiktok.
This wave wasn’t accidental; it was the result of strategic government investment. The South Korean state prioritized cultural industries, steadily increasing the budget for cultural production. Their long-term vision—to turn culture into an economic and diplomatic tool—is a valuable lesson for Vietnam. Consider how you could promote Vietnamese culture globally through music or cinema.
Vietnamese music is starting to gain international attention too—hits like Hoàng Thùy Linh’s “See Tình,” Pháo & Masew’s “2 phút hơn,” Tăng Duy Tân’s “Bên trên tầng lầu,” Phạm Quỳnh Anh’s “Hello Việt Nam,” and several tracks by Sơn Tùng M‑TP (“Lạc trôi,” “Đừng làm trái tim anh đau”) are receiving significant reach on YouTube and TikTok.

Khía cạnh đầu tiên: K-Drama (phim truyền hình Hàn Quốc) (The first corner: Artistic Snapshot: K‑Drama in Vietnam)
Nhắc đến phim Hàn Quốc ở Việt Nam thì cuối thập niên 90 - đầu những năm 2000 là những bộ phim về tình yêu trai gái, đôi lứa, tình cảm gia đình, coi trọng gia đình, người thân, thứ bậc, cách ứng xử của văn hóa gia đình, công ty, … Đây là thời kì mà văn hóa phim ảnh của Hàn Quốc len lỏi vào từng nếp nhà của gia đình Việt - khi mà internet chưa phổ biến hay thậm chí là còn chưa “về bản”, thì phim Hàn trở thành món ăn tinh thần gần như là “duy nhất” và không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của gia đình Việt. Đơn cử có thể kể tên những bộ phim tình cảm lãng mạn, sự ngăn cản của gia đình, xã hội, thứ bậc đối với hai nhân vật chính: “Trái tim mùa thu” (2000), “Giày thủy tinh” (2002), “Bản tình ca mùa Đông” (2002), “Hương mùa hè” (2003), “Chuyện tình Harvard” (2004) hay phim dã sử “Nàng Dae Jang-geum”(2003) đến những phim tình cảm gia đình hài hước, nhẹ nhàng, sâu sắc: “Gia đình là số 1”(2006),.... và còn rất nhiều bộ phim khác cực kỳ quen thuộc với thế hệ 8X-9X.
Vietnam’s love affair with Korean drama began in the late 1990s to early 2000s, featuring tales of romantic love, family ties, filial piety, hierarchy, and etiquette. These dramas slipped into Vietnamese homes at a time when the internet wasn’t widespread, becoming the primary entertainment source for many families. Classics like Autumn in My Heart (2000), Glass Slippers (2002), Winter Sonata (2002), Summer Scent (2003), Stairway to Heaven (2004), Jewel in the Palace (2003), and sitcom High Kick! (2006) became emblematic for the 8X–9X crowd.

Nhờ nhận thấy những điểm tương đồng về văn hóa gia đình, tình yêu mà các bộ phim truyền hình Hàn Quốc dần dần trở thành thước đo về tình yêu của 1 bộ phận những người trẻ yêu thích phim Hàn tại thời điểm đó. Bản thân mình là một người cực kì mê các phim Hàn thời điểm đó. Hình dung về 1 thế giới “thực” nơi chúng ta có thể “yêu” và yêu hết mình. Một thứ tình cảm đầy lãng mạn và mãnh liệt đan xen trên từng hơi thở của các tập phim Hàn Quốc với những nhân vật và cuộc đời mà mình cũng mơ ước 1 lần được trở thành. Viết đến đây, chắc các bạn cũng đoán mình thuộc thế hệ đầu 9X và đã xem phim Hàn cùng gia đình, cũng từng thấy hơi “ngượng ngùng” vì những cảnh thể hiện tình cảm của 2 nhân vật chính với nhau, vì có gia đình xem cùng. Tất nhiên, cái gì cũng có 2 mặt của nó. Dẫu cho phim Hàn vẫn có vài mặt hạn chế, nhiều điểm chưa hoàn toàn đúng với thực tế cuộc sống, nhưng cũng không thể phủ nhận được những ảnh hưởng tích cực như truyền cảm hứng cho nhiều bạn trẻ có thêm đam mê học tiếng Hàn, đi du học ở Hàn và làm việc ở các công ty Hàn Quốc. Điều này đã 1 phần nào đó giúp thúc đẩy 2 quốc gia với 2 nền văn hóa có nhiều điểm tương đồng bắt tay vào xây dựng một mối quan hệ bền vững về kinh tế.
These shows resonated due to shared values around family and love. Then Korean dramas gradually became the standard for romance in the eyes of a segment of young Vietnamese viewers at that time. As for me, I was a big fan of K-dramas back then. They painted a “real” world where we could love freely and wholeheartedly. A world filled with soft, intense emotions woven into every breath of those classic series - where characters lived out the very dreams we once wished could come true.
By now, you’ve probably guessed I’m part of the late 8X–early 9X generation who grew up watching K-dramas with my family. And like many others, I sometimes felt a bit “awkward” during those romantic scenes between the main characters… because we were all watching together. Despite some unrealistic plot points, they positively inspired many to learn Korean, study abroad in South Korea, or work for Korean companies - laying groundwork for deeper cultural and economic ties.
Còn các bạn thì sao? Các bạn có bao giờ hỏi ngược lại rằng, điều gì khiến người Hàn sống ở Việt Nam quyết định học tiếng Việt không? Trở về với thời điểm hiện tại thì số lượng người Hàn ở Việt Nam chiếm con số lớn nhất so với các nước trong khu vực. Vậy họ có được truyền cảm hứng như chúng ta hơn để học tiếng Việt không? Hay họ phải học tiếng Việt vì bắt buộc?
Để tìm hiểu sâu hơn những câu hỏi đó, để giúp văn hóa Việt, tiếng Việt đến gần hơn nữa với cộng đồng người Hàn ở Việt Nam nói riêng và các cộng đồng khác nói chung, sao không thử tìm hiểu thêm về các sự kiện sắp tới của chúng mình qua sự kiện Trao đổi văn hóa Việt - Hàn - Anh: https://www.facebook.com/share/16fDdTqfhh/? EZPZ là nơi mà bạn có cơ hội được gặp gỡ trò chuyện và hiểu sâu hơn về văn hóa Hàn Quốc cũng như Việt Nam - những điểm tương đồng cũng như khác biệt tạo nên những nét đẹp, đặc trưng riêng của văn hóa 2 quốc gia.
Bên cạnh đó, EZPZ cũng có lớp học tiếng Việt ở trình độ cơ bản cho học sinh người Hàn. Các bạn có thể tham khảo thêm ở đường link: https://www.facebook.com/share/v/1F4KoQ8gRx/
Have you ever wondered what motivates Koreans living in Vietnam to learn Vietnamese? With the Korean community here being one of the largest in Southeast Asia, are they learning Vietnamese out of inspiration—or necessity? To explore that, and to help promote the cultural bridging between Vietnam and Korea, check out EZPZ: an event series where you can meet and explore both cultures—discovering similarities and celebrating differences: https://www.facebook.com/share/16fDdTqfhh EZPZ also offers basic Vietnamese class for Korean students—details available via the link: https://www.facebook.com/share/v/1F4KoQ8gRx/
Vậy là 2 phút dành cho quảng cáo của mình đã kết thúc! Quay trở lại với chủ đề của bài blog lần này, các bạn cùng đón chờ đọc phần 2 để tìm hiểu thêm về các khía cạnh khác cùng EZPZ.
Một lần nữa, cảm ơn các bạn đã đọc đến đây và hẹn gặp lại ở bài blog sau.
That wraps up my 2-minute ad moment! Stay tuned for Part 2, where we’ll dive into more aspects of Hallyu with EZPZ. Thanks again for reading - see you in the next post.
#KoreanCulture #LearningVietnamese #EZPZ #Hallyu #studyvietnamese #vietnamese #learnvietnamese #việthàn #khóahọctiếngViệtchongườiHànQuốc
Related Post Blog:
Komentar